Một chút nhớ quên
Phan Lạc Tiếp
San Diego, thành phố này không xa lạ với tôi, v́ năm 1970, tôi đă đến đây với tư cách là một Sĩ Quan Đồng Minh du học rồi lănh tàu, mở đầu cho chương tŕnh Việt Nam hoá chiến tranh. Tôi rời Sài G̣n lúc 12 giờ hôm 25 tháng 2 năm 1970 và đúng như lời Thiếu Tá Smith, vị sĩ quan liên lạc cho tôi biết, sau 18 giờ bay, tôi đặt chân lên lục địa này, phi trường San Francisco, cùng giờ và cùng ngày khi rời Việt Nam: 12 giờ ngày 25 tháng 2.
Sau mấy giờ làm thủ tục và chờ đợi, tôi đáp một chuyến bay khác từ San Francisco đi San Diego. Máy bay nhỏ, bay thấp, bay theo bờ biển của tiểu bang California. Từ trên máy bay nh́n xuống, nước Mỹ với tôi chỉ là những cụm đèn, chỗ nhiều, chỗ ít không dứt.
Khi đến San Diego đă 10 giờ đêm. Tạm trú tại khu BOQ, nơi cư trú của Sĩ Quan độc thân trên đường 32. Vừa để hành lư vào pḥng, nh́n lên bàn viết đă thấy chương tŕnh làm việc cho ngày hôm sau và cả tuần lễ sau đó.
- 8 giờ 30 sáng ngày 26 tŕnh diện Đại Tá Cassini, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân San Diego.
- Sau đó là những ngày bận rộn liên miên cuốn đi không ngưng nghỉ.
- Sửa soạn nơi cư trú cho tất cả Thuỷ thủ đoàn HQ 504 khi đến đây
- Góp ư với vị sĩ quan liên lạc Hoa Kỳ để sắp xếp cho Thuỷ Thủ đoàn thăm viếng các nơi tại địa phương và phụ cận như San Diego Zoo và Disney Land.
- Hai tuần sau Hạm Trưởng và Thủy Thủ đoàn đến
- Những ngày túi bụi đi học chuyên môn, thực tập và làm quen với chiến hạm. HQ Thiếu Tá Phan Phi Phụng là Hạm Trưởng. HQ Đại Uư Đinh Mạnh Hùng (Hùng mèo) là Hạm Phó. Tôi là Sĩ Quan đệ tam.
Trở ra pḥng khách, ngồi nghỉ, lọt thỏm trong chiếc ghế nệm to, dày, êm ái. Trước mặt bàn là tờ nhật báo San Diego Union, nơi trang nhất có in h́nh chiếc hàng không mẫu hạm rẽ sóng, chui dưới dạ cầu Cororado, tượng trưng cho ngày lễ khánh thành cây cầu lịch sử này ngày hôm trước, 24 tháng 2 năm 1970. Cây cầu nối liền eo biển từ San Diego qua bán đảo Coronado.
Đang nh́n ngắm tờ báo th́ có tiếng người Việt Nam léo xéo từ ngoài cửa. Nh́n ra là một số bạn bè Hải Quân đến đây trước trong chương tŕnh thụ huấn để sau đó nhận lănh tàu như chúng tôi. Người chạy lại ôm tôi là Lê Quang Lập, cùng khoá.
Lập nói: “Nh́n tờ chương tŕnh làm việc, biết hôm nay cụ tới, mà không rơ giờ nào. Không ngờ cụ tới trễ thế. Sẵn sàng quần áo đi, cần bàn ủi ủi lại quần áo không, qua pḥng tui mà lấy, mai tŕnh diện Đại Tá Chỉ Huy Trưởng, rồi hàng ngày đèn sách như tụi này, mệt nghỉ …”
Sau mấy tháng huấn luyện về hải hành, điện tử, pḥng tai, hành quân đổ bộ thực tập hải pháo rồi rời BOQ xuống sống hẳn trên chiến hạm. Hạm Trưởng Phan Phi Phụng điều khiển chiến hạm, và thuỷ thủ đoàn đă rất thuần thục trong mọi trách nhiệm của ḿnh, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy ḿnh ăn nhờ ở đậu, v́ chiến hạm vẫn mang quốc kỳ Hoa Kỳ khi đậu bến cũng như khi hải hành.
Chúng tôi chờ đợi ngày lễ chuyển giao chiến hạm, nghe nói chính Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam, Phó Đề Đốc Trần Văn Chơn sẽ qua Mỹ để chủ toạ và tiếp nhận chiến hạm này. Và ngày đó đă đến. Lúc ấy vị Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam mới có một sao trên vai áo. Nhưng khi máy bay chở vị Tư Lệnh Hải Quân từ phi đạo ḅ vào vị trí tiếp đón, cánh cửa phi cơ mở ra, dàn quân nhạc danh dự bùng vang điệu nhạc đón chào, và lần lượt 19 phát đại bác từ một góc sân rền vang. Đô Đốc Zummwalt, 4 sao trên vai áo, đương kim Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ trong đại lễ trắng, đeo kiếm vàng bên hông ra tận chân cầu thang giơ tay chào vị khách danh dự từ Việt Nam vừa đến.
Phó Đề Đốc Trần Văn Chơn xuất hiện, cũng trong đại lễ trắng, và trên ngực áo chi chít những huy chương. Hai vị tướng lănh tươi cười bắt tay nhau trong lúc ánh đèn kư giả loáng nhoáng liên hồi. Hai vị đi duyệt đoàn quân danh dự trong quân phục Hải Quân và Thuỷ Quân Lục Chiến bồng súng dàn chào. Dàn nhạc và tiếng đại bác vẫn ầm vang, rộn ră. Khi hai vị tướng lănh trở lại khán đài th́ dàn nhạc và 19 phát đại bác cũng vừa chấm dứt. Lúc ấy là tháng sáu, trời San Diego c̣n lạnh. Gió từng cơn thổi lật bật những lá quân kỳ. Sau hai bài diễn văn ngắn của chủ và khách, ông Thị Trưởng San Diego trân trọng được giới thiệu, tiến lên trao ch́a khoá vàng của thành phố San Diego cho vị thượng khách. Một chiếc xe đen bóng chờ tới, cắm bảng 4 sao và lệnh kỳ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Một Đại Úy Hải Quân Hoa Kỳ làm sĩ quan tuỳ viên, cũng trong đại lễ trắng, bao tay trắng, nhanh nhẹn mở cửa xe. Đô Đốc Zummwalt ch́a tay mời Phó Đề Đốc Chơn lên xe. Cửa vừa đóng, xe chuyển bánh nhạc lại trổi vang lừng. Đô Đốc Zummwalt và quan khách đồng loạt đứng nghiêm, giơ tay chào tiễn khách. Xe và đoàn tùy tùng của vị Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam đi thẳng tới khách sạn danh dự Del Cororado bên kia bờ vịnh San Diego, nơi dành để tiếp đón những vị nguyên thủ, những thượng khách của thành phố này. (Là một sĩ quan phụ trách một phần trong cuộc tiếp rước này, chúng tôi được biết, dù vị Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam mới có một sao, nhưng là Tư Lệnh Hải Quân một nước, nên được vị Tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ kính trọng và tiếp rước với đầy đủ nghi thức như dành cho vị Tư Lệnh Hải Quân một quốc gia, ngang hàng với vị đương kim Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ).
Ngày hôm sau là ngày lễ bàn giao và tiếp nhận 2 Dương Vận Hạm: Quy Nhơn HQ 504 và Nha Trang HQ 505, được tổ chức trên sân chánh của HQ 504 đậu bên cầu tàu trong căn cứ Hải Quân Mỹ, San Diego. Trong dịp này, ngoài những vị khách dân sự của thành phố, tôi c̣n thấy rất nhiều tướng lănh Hải, Lục, Không Quân, 2 sao, 3 sao đến dự. Về phía Hoa Kỳ, Đô Đốc Zummwalt là vị tướng lănh cao cấp nhất, ông tới sau cùng. Sau đó Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam mới đến. Khi Phó Đề Đốc Trần Văn Chơn đến tất cả quan khách trên khán đài đều đứng lên đón chào vị thượng khách Việt Nam. Phần đầu là nghi thức lễ hạ quốc kỳ Hoa Kỳ, điều khiển bằng tiếng Mỹ. Quốc ca Hoa Kỳ nổi lên. Lá quốc kỳ sao sọc được từ kéo xuống, một thủy thủ Hoa Kỳ gập lại và trân trọng để trên bàn, trước mặt vị Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ. Cột cờ trống vắng. Dây cờ lật bật trong gió biển thổi trùng trùng.
Thời gian như ngưng lại. Bỗng tiếng Hạm Trưởng HQ 504, HQ Thiếu Tá Phan Phi Phụng vang lên: “Nghi.. ê …m. Lễ rước Quân, Quốc và Thánh Kỳ”. Điệu quân nhạc ngắn, quen thuộc nhưng nghe hơi lạ v́ cách hoà âm hơi khác, do ban nhạc Hải Quân Mỹ trỗi lên. Rồi “Lễ thượng kỳ Việt Nam Cộng Hoà”. Quốc thiều Việt Nam Cộng Hoa bùng vỡ, tràn ngập cả không gian, làm rộn ră những trái tim. Mọi người hướng về cột cờ chiến hạm. Anh Hạ Sĩ giám lộ, quần áo thẳng cứng, trân trọng bưng trên tay lá đại kỳ. Một anh giám lộ khác kéo dây. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ tươi thắm lần lần được mở ra, được kéo lên cao, lên cao nữa rồi đậu ở đỉnh cột cờ, bay uốn éo trong nắng ấm, giữa bầu trời cao xanh của quân cảng San Diego. Những tràng pháo tay vang dội. Sĩ quan và thủy thủ đoàn Việt Nam trong đại lễ trắng thẳng tắp lần lượt hiện diện tại các nhiệm sở trên HQ 504 cũng như trên HQ 505. Không gian và thời gian như vừa đổi khác. Tôi bỗng thấy tôi cũng vừa đổi khác. Nh́n đâu tôi cũng bỗng thấy những thân quen, những nụ cười, những ánh mắt tưng bừng hănh diện. Ban nhạc vẫn lần lượt cử những bản hùng ca. Quan khách lần lượt ra về. Ở hạm kiều, Trung Uư Vũ Huy, trong đại lễ trắng thẳng cứng, đeo kiếm, là vị sĩ quan trực đầu tiên, đứng bên anh hạ sĩ quan và một thủ trực nhật, cũng đại lễ trắng thẳng cứng đang lần lược cất tay chào quan khách rời chiến hạm.
Trong ngày lễ chuyển giao chiến hạm này, ngoài những vị khách chính thức tại địa phương, chúng tôi có phát giấy mời tới những bè bạn Việt Nam thân quen tại San Diego và phụ cận. Tôi nhớ rằng trong điện thoại niên giám ở San Diego năm đó, tổng cộng chỉ có 55 người Việt Nam, đa số là sinh viên du học; một vài người đàn bà là hôn phối của quân nhân Hoa Kỳ, theo chồng về Mỹ; một số ít là những người đang dạy Việt ngữ cho quân nhân Mỹ trong căn cứ ở bên kia đảo Coronado. Trong những người này có Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn (sau ông về nước làm Phó Thủ Tướng ). Nhưng đáng chú ư nhất có lẽ là hai chị em cô H. V́ sau khi nhận lănh chiến hạm, ngày cuối tuần hai cô thường tới thăm từ sớm, ở lại buổi trưa và hai cô đă trổ tài nấu những món ăn rất Việt Nam. Nhà bếp sĩ quan tưng bừng mùi nước mắm, nào bún ḅ Huế, phở …
Anh T., đang sửa soạn luận án tiến sĩ, có vợ Mỹ. Một hôm vợ anh, chị M. đem đến một thùng đầy bánh cuốn đă làm sẵn nóng hổi, với đầy đủ cà cuống, nước mắm dấm, tôm khô giă nhỏ. Tất cả sĩ quan và khách gần 20 người được một bữa ăn vô cùng ngon và bỡ ngỡ trước tài nội trợ hiếm có của người con dâu dị chủng này. Được hỏi “chị học ở đâu cách làm bánh cuốn này”, chị bảo: “Mẹ chồng tôi ở Paris, mở tiệm ăn Việt Nam. Vợ chồng tôi sang Pháp nghỉ hè, hàng ngày tôi phải dậy sớm phụ mẹ chồng làm bếp nên học được cách làm bánh cuốn, kho thịt, làm dưa, và cả nấu canh cá ám nữa…”
Trong những nơi chúng tôi đi thăm, có trường Đại Học UCSD, và Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương lúc ấy là người Việt duy nhất giảng dạy tại đây. Lúc ấy ông đă nổi tiếng v́ được coi là vị giáo sư thâm niên nhất của viện đại học này, là giáo sư thực thụ cả 3 ngành Lư, Hoá và Sinh Học. Tất nhiên trong ngày lễ chuyển giao tàu, ông là một vị khách quư, được mời. Nhưng ngày ấy ông bận không đến được. Hạm Trưởng rất lấy làm tiếc, và Giáo Sư Xương cũng rất tiếc. Do đó Hạm Trưởng đă tổ chức một bữa cơm khác trên tàu để mời ông bà Giáo Sư Xương.
HQ 504 tuy là con tàu cũ được hạ thủy từ thế chiến thứ 2, nay được tân trang để chuyển giao cho Hải Quân VNCH. Pḥng ăn sĩ quan rất đẹp. Thảm xanh dày mầu lá mạ mới tinh, thơm phức. Dàn ghế bành da to bóng loáng lấy từ pḥng ăn của một khu trục hạm cũ, bỏ hoang dành cho pḥng họp cấp Đô Đốc. Quanh tường, trong lúc rảnh rỗi chính Hạm Trưởng đă vẽ những hoa văn chữ thọ bằng kim nhũ óng ánh. Và ngay mảnh tường chính của pḥng ăn, gắn một cái đàn c̣ như một trang trí rất nghệ thuật, rất Việt Nam. Đây là những sản phẩm tiểu công nghệ được Hạm Trưởng mua sẵn từ Việt Nam đem theo làm vật lưu niệm cho quan khách. Hôm nay có khách, cũng là dịp vui của chiến hạm. Bàn ăn rộng, khăn bàn trắng tinh, thẳng cứng. Trước ghế ngồi có bảng tên viết trong khuôn giấy viền vàng có in mỏ neo ở góc mặt. (do tiếp liệu Mỹ cung cấp).
Khi xe của Giáo Sư Xương đến cổng ngoài của cầu tàu, lính Mỹ đă gọi điện thoại thông báo cho chiến hạm. Sĩ quan trực, hạ sĩ quan, và một thủy thủ trực hạm kiều trong y phục tiểu lễ, xếp hàng đón đợi như một vị thượng khách. Vừa bước lên sàn tàu. Hạm Trưởng từ trong bước ra đón khách và hướng dẫn vào pḥng ăn sĩ quan. Tất cả sĩ quan đều đứng lên chào. Hạm Trưởng giới thiệu vợ chồng vị khách quư với bộ tham mưu chiến hạm. Ghế của Hạm Trưởng không bao giờ thay đổi, ở đầu bàn. Ngay bên phải ghế của Hạm Trưởng, là 2 ghế trống, dành cho 2 vị khách. Khi Hạm trưởng và 2 vị khách đă an vị, các sĩ quan mới kéo ghế ngồi vào chỗ ngồi đă được định trước. Ai nấy đều nghiêm túc trong tiểu lễ trắng tinh, thẳng cứng, lon vàng, giây biểu chương óng ánh. Hạm Trưởng nói mấy lời chào, rồi nhường lời cho Trung Uư Sáu, sĩ quan ít thâm niên nhất, là sĩ quan ẩm thực đứng lên đọc thực đơn. Bữa ăn bắt đầu.
Hai anh hoả đầu vụ cũng quân phục trắng toát, cà vạt đen trước ngực, bưng một khay bạc (mới mua ở PX Mỹ), lần lượt rót rượu vào ly cho mọi người một cách rất điệu nghệ. Sau mỗi ly của khách, miệng chai được xoay nhẹ và khẽ nhấc lên, rượu không rớt ra ngoài một giọt. Một ṿng rượu quanh bàn, là một chai vừa hết. Hạm Trưởng mời mọi người nâng ly. Sau đó lần lượt là những món ăn được đem ra, vừa ngon và được xếp đặt rất đẹp. Bữa ăn đă diễn ra với tất cả nghi lễ rất kiểu cách như định bởi hải quy của các Hải Quân Âu Mỹ. Tuy nhiên những món ăn th́ pha trộn, vừa tây vừa ta, trong đó có món chả gị mà bánh tráng, nước mắm đă được đem đi từ Việt Nam.
Khi món tráng miệng đă được mang ra, mọi người như đă quen thân, giáo sư Xương hỏi: “Các anh ăn uống trịnh trọng, kiểu cách như vậy, th́ c̣n th́ giờ đâu mà làm việc?”. Hạm Trưởng cười, nói: “Đâu có. Ở Việt Nam chúng tôi sống rất là đạm bạc. Bây giờ ở Mỹ, thực phẩm do Mỹ cung cấp rất đầy đủ, nên việc đón tiếp giáo sư hôm nay cũng là dịp để chúng tôi thực tập các nghi thức đă ghi trong hải quy mà thôi”. Mọi người cười xoà.
Những nghi thức bỗng dưng tan biến. Hạm Trưởng lấy cây đàn c̣ treo từ trên tường xuống, trịnh trọng tặng ông bà Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương. Từ cây đàn c̣ khiến câu chuyện nhắc đến những điệu trống quân, đến các câu ru em, c̣ lả. Và tôi đă được bạn cùng khóa, Đinh Mạnh Hùng (Hùng mèo) nói: “Mày ngâm vài câu đi”. Mọi người ồn ào “Ngâm đi, c̣ lả đi” . Không thể từ chối, tôi đă đứng ở giữa pḥng, sửa soạn. Mọi người im phăng phắc, như đợi tiếng đàn, nhưng rồi nh́n nhau, chẳng ai biết đàn cả, cười kh́. Tôi đành cất tiếng:
Con c̣ (mà ) bay lả (chứ) bay la.
Bay qua (là qua) ruộng lúa (chứ) bay về (là về) đồng xanh
T́nh tính tang, tang tính t́nh, cô nàng rằng, cô nàng ơi rằng…
Mọi người bỗng vỗ tay, hát theo và cười vui. Giáo Sư Xương cũng vỗ tay, nhưng tôi để ư thấy mắt ông rưng rưng lệ. Tan buổi tiệc, Giáo Sư Xương có hỏi tôi rằng: “Là sĩ quan, các anh có phải là những nghệ sĩ nữa không. Lâu lắm, tưởng đă quên, tôi mới được nghe lại câu hát này. Câu hát làm tôi nhớ mẹ tôi…”. Tôi nói: “Không. Chỉ là sự t́nh cờ, chúng tôi hát ḥ tài tử mà thôi”, và quen biết Giáo Sư Xương từ đó. Con tàu đă trở nên thân quen với thuỷ thủ đoàn Việt Nam. Rộn ră những buổi tiếp tân, những chuyến viếng thăm đây đó trên đất nước to lớn và hùng mạnh này đă lắng lại, nhạt nhoà. Những bữa cơm trên tàu đă bắt đầu mang hương vị quê hương, nhiều rau hơn thịt. Trong những ngày nghỉ cuối tuần, nằm trong ḷng tàu, nghe tiếng nước êm ả xôn xao chảy miên man ở chân cầu, tôi có cảm tưởng mở mắt nh́n qua cửa sổ tṛn chiến hạm, ḿnh sẽ thấy những hàng dừa xanh đong đưa cành lá ở bến Bạch Đằng. Trong thinh không nghe đâu đây như có tiếng xe xích lô máy nổ vang, khói phun mờ mịt chạy như đi trốn, mất hút trên đường Trần hưng Đạo, Sài G̣n.
Những ngày cuối tuần nằm trong chăn mà nhớ nhà, nhớ hơi ấm của vợ, nhớ tiếng nói ngây thơ của con. Nhớ con hẻm vào khu nhà ḿnh, nhớ cả tiếng động buổi mai nơi xóm nghèo bao quanh. Tiếng những bước chân ai nặng nề quảy đôi thùng nước từ đầu phố vào tuốt sâu trong ngơ mút xa. Nhớ những buổi dậy trưa, vợ chồng đèo nhau trên chiếc xe vespa, đi t́m bát phở ấm đầu ngày. Nhớ vị phở ngọn đậm ở th́a nước đầu nếm thử. Nhớ vị cay nhẹ của lát ớt, vị béo bùi của thớ thịt tái chạm vào đầu lưỡi… Ôi, nói thế nào cho hết. Nhớ từ mùi cống hôi hôi đầu ngơ phủ đầy rác rưởi. Nhớ đến quay quắt cả người. Nhớ nôn nao chùm phủ cả trong giấc ngủ. Tôi chỉ mong chóng đến ngày tàu khởi hành về nước mà thôi.
Rồi ngày đó cũng đến. Hôm tàu rời bến về nước, ngoài ban quân nhạc của căn cứ, trên cầu tàu có mấy người bạn mới quen đưa tiễn. Anh Trương Văn Tính, một cựu sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến, cùng dạy Việt ngữ cho quân nhân Mỹ với các cô H, và Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn đưa tiễn.
Chính anh Tính là người đă tháo khoen dây cuối cùng cho tàu rời bến, về nước. Nhưng đứng một ḿnh riêng lẻ là một cô gái Mỹ, bạn gái của một anh Trung Sĩ của tàu tôi. Không biết từ những quen biết nào mà trong những ngày cuối tuần tại đây, những hôm không phải phiên trực, anh xin phép được ngủ ngoài như một quân nhân có gia đ́nh. Ngày sắp về nước, mọi người đi mua sắm, đồ mới th́ ít mà đi mua đồ garage sale th́ nhiều. Ai cũng dành dụm cố t́m mua một cái tủ lạnh cũ đem về tặng vợ con, đa số là những tủ lạnh c̣n chạy tốt, nhưng cổ lỗ sĩ, cồng kềnh. Anh Trung Sĩ kia th́ khác. Người bạn gái Mỹ của anh chở đến tặng anh một cái tủ lạnh loại vừa vừa, mới tinh, c̣n bọc trong hộp. Bây giờ tàu rời bến, rời hẳn để ra khơi, vượt Thái B́nh Dương, về nước. Tàu tách bến, quay mũi. Tôi từ trên đài chỉ huy nh́n xuống, những người ở lại giơ tay vẫy vẫy rồi lần lượt tản mát ra về. Trên cầu tàu, cô gái Mỹ vẫn c̣n đứng đó. Tàu xa dần. H́nh cô gái nhỏ dần, đen đậm như một cái chấm nhỏ, đơn độc, chơ vơ. Tàu đi dọc theo bờ biển chi chít những con tàu nhỏ, loại tàu thể thao. Đường Broadway chạy dài hun hút ở phía tay mặt. Tàu rẽ trái đi theo hướng chính Nam, dọc theo đảo Paloma để ra cửa biển. Bên trái là bán đảo quân sự.
Cầu tàu có một hàng không mẫu hạm đậu. Những ngôi nhà thấp, nơi chúng tôi thường lui tới học hành những ngày tháng qua. Gió đă nổi. Tàu sửa soạn rẽ mặt để thực sự ra khơi. Máy đă tiến qua nhiệm sở vận chuyển và từ giă bến vừa dứt. C̣i gọi phiên hải hành réo gọi. Mọi người trong quân phục xám xanh, thay v́ trắng, lên đảm nhận phiên hải hành thường lệ. Tôi ngoảnh cổ nh́n về phía sau, qua những dăy nhà thấp của bán đảo Coronado, San Diego chỉ c̣n là mấy đỉnh nhà cao đă phủ mờ hơi sương và khói sóng. Không biết cô gái Mỹ kia có c̣n đứng ở cầu tàu, hay đă âm thầm lui gót.
Khi con tàu rời khỏi cửa biển Point Loma, hướng mũi ra khơi, qua cái phao chuông cḥng chành buông những tiếng kêu lanh canh ở tận cùng cửa biển, ḷng tôi vừa mừng vừa bâng khuâng, lo lắng. Mừng là chúng tôi đang trên đường trở về quê hương, nơi vợ con đang nóng ḷng chờ đợi. B âng khuâng v́ nhớ tiếc những nơi ḿnh đă ở, đă đi qua với tất cả những lạ lùng, đẹp đẽ mà con cái ḿnh, vợ con ḿnh không có cơ may được thấy. Lo lắng v́ trước mặt là biển Thái B́nh Dương mông mênh, sóng gió, những trắc trở nào trên hải tŕnh 40 ngày trước mặt. Nhưng tôi cũng như mọi người trên tàu có lẽ đều nghĩ rằng: “Thôi, xin giă từ nước Mỹ. Xin trả lại những huy hoàng, hùng mạnh của nước Mỹ cho nước Mỹ. Chúng tôi không ở đây nữa đâu.”
Con tàu lầm lũi đi. Đêm đă xuống. Hải đăng ở mũi Point Loma đă không c̣n ánh lên nữa. San Diego xa dần và ch́m khuất dưới chân trời đêm c̣n hừng ánh sáng. Tiếng máy tàu chạy êm ả, điều hoà. Thái B́nh Dương, một đại dương lớn nhất của địa cầu, bỗng trở nên mông mênh, đe doạ. HQ 505 óng ánh đèn hải hành xanh đỏ ở phía sau. San Diego xa hẳn. Cả vùng sáng mông lung đă không c̣n nữa. Thôi thế là giă từ nước Mỹ, và tôi đă nghĩ rằng, tôi không bao giờ trở lại đây nữa. Xin vẫy tay chào.
Sau 7 ngày đêm hải hành ṛng ră. Những vị trí hải hành thiên văn liên tục, chồng chất trên những vị trí của máy loran vẽ trên những tờ giấy trắng không kẻ ô, không có h́nh núi non ǵ cả. Quang độ rất giới hạn v́ sương. Những đám sương bay la đà khiến mũi tàu nhấp nhô, khi ẩn khi hiện. B iển đêm và chân trời th́ mịt mùng, mung lung đen đặc. Tàu đi hay đứng nào có khác ǵ nhau. Phương hướng cũng mịt mù, tất cả chỉ trông vào cây kim của la bàn mà thôi. Đứng trên đài chỉ huy mà tôi như thấy có một sức kéo nặng nề liên tục từ ḷng biển sâu miệt mài hút xuống.
Bookmarks